Kha tử trị ho mất tiếng

Kha tử còn gọi là cây chiêu liêu, myrobolan de commerce. Tên khoa học Terminalia chebula Retz.(Terminalia reticulata Roth., Myrobalanus chebula Gaertn.).

Thuộc họ Bàng Combretaceae.

Kha tử (Fructus Terminaliae) là quả chín hay sấy hay phơi khô của cây chiêu liêu hay kha tử.

Mô tả cây

Kha tử là một cây to cao chừng 15 - 20m, có vỏ màu đen nhạt trên có những vạch nứt dọc. Lá mọc đối cuống rất ngắn, hình trứng, phía cuống tròn hơi thon, đầu nhọn, dài chừng 15 - 20cm, rộng 7 - 15cm, dai, hơi có lông mềm trên cả hai mặt, sau thì nhẵn, ở đầu cuống có hai tuyến nhỏ hình mắt cua. Hoa mọc thành bông, nhỏ, màu trắng, lưỡng tính, mùi thơm, mọc ở đầu cành hay ở kẽ lá, cuống ngắn, trên có phủ lông màu vàng nhạt. Quả hình trứng thon, dài 3 - 4cm, rộng 22 - 25mm, hai đầu tù, không có dìa, có 5 cạnh dọc, màu nâu vàng nhạt, thịt đen nhạt, khô, cứng và chắc. Hạch cứng, hơi hình 5 cạnh, dày chừng 10 - 15mm, 1 hạt, lá mầm cuốn.

kha tu

Có một loại chiêu liêu xanh (Terminalia citrina Roxb. hay Myrobalanus citrina Gaertn.). Có lá dài hơn, nhẵn, kể cả khi còn non, quả thuôn và nhỏ hơn, nhân mỏng hơn, hạt hẹp hơn. Chiêu liêu xanh mọc ở Biên Hòa.

Cây kha tử hay chiêu liêu chỉ mới thấy mọc ở miền Nam, Campuchia (còn gọi là Sramar), Lào, Ấn Độ, Miến Điện, Thái Lan.

Vào tháng 9 - 10 - 11 quả chín, hái về phơi khô là được.

Thành phần hóa học: trong kha tử có 20 - 40% tanin bao gồm axít elagic, axít galic, axít luteolic. Lượng tanin có khi lên đến 51,3% nếu quả thật khô.

Ngoài ra còn có axít chebulinic với tỉ lệ 3 - 4%. Trong nhân còn có 36,7% dầu vàng nhạt, trong.

Công dụng và liều dùng

Kha tử là một vị thuốc chuyên dùng chữa đi ỉa lỏng lâu ngày, chữa lỵ kinh niên, còn dùng chữa ho mất tiếng, di tinh, mồ hôi trộm, trĩ, lòi dom, xích bạch đới.

Ngày uống 3 - 6g dưới dạng thuóc sắc, thuốc viên.

Còn dùng trong kỹ nghệ thuộc da.

Điều đáng chú ý là khi dùng kha tử là liều nhỏ thì cầm đi tiêu, liều lớn lại gây đi tiêu. Liều cầm đi tiêu là 3 - 6g.

ho

Đơn thuốc có kha tử:

Chữa xích bạch lỵ: kha tử 12 quả, 6 quả để sống, 6 quả nướng, bỏ hạt, sao vàng và tán nhỏ. Nếu lỵ ra máu thì dùng nước sắc cam thảo chiêu thuốc, nếu lỵ ra mủ không, dùng nước sắc cam thảo trích.

Chữa ho lâu ngày: kha tử 4g, đảng sâm 4g, sắc với 400ml nước cô đặc còn 200ml, chia 3 lần uống trong ngày.

Trị viêm họng, đau họng: ngậm 1 quả kha tử, nuốt nước từ từ cho đến khi hết chát. Vài giờ sau chữa thấy hết khó chịu thì ngậm 1 quả nữa. Thông thường chỉ cần ngậm 1 quả là hết viêm họng. Nếu nặng hơn, mỗi ngày ngậm 3 quả, ngậm 2 - 3 ngày sẽ hết khan tiếng, tắt tiếng. Hoặc 8g kha tử, 6g cam thảo, 10g cát cánh đem sắc nước uống hàng ngày.

Ho lâu ngày: kha tử, đảng sâm mỗi thứ 4g sắc với 400ml, còn 150ml, chia uống 3 lần.

Liều 3 - 10g cho uống thuốc thang hoặc thuốc tán.Trường hợp dùng để trị tiêu chảy nên dùng kha tử nướng, trường hợp ho mất tiếng nên dùng kha tử sống, nếu là quả kha tử xanh tác dụng càng hay.Trường hợp bệnh nhân có triệu chứng thấp nhiệt tích trệ không nên dùng độc vị kha tử.

BS. TRƯƠNG MINH HỮU HẠNH

Quả trám trị viêm họng, sốt cao

Để làm thuốc thường dùng trám trắng, vị chua, ngọt bùi béo tính ôn, vào hai kinh phế và vị, có tác dụng sinh tân dịch, giải khát, thanh giọng, giải độc cá, giải say rượu. Theo bản thảo cương mục, trám chủ trị đau yết hầu (họng).

Trám trắng:

Trị khô họng, ho gây mất ngủ (mùa thu đông): 20 - 30 quả trám tươi (bỏ hột) đập giập lấy nước uống. Có thể thêm gừng, đường hay mật để uống.

Viêm họng cấp mạn, amidan, khô rát cổ, mất tiếng: dùng trám muối như chanh muối để ngậm hay pha nước uống. Có thể phối hợp trám tươi để hãm uống chữa đau họng và hạ hư hỏa.

Tổn thương trong viêm họng mạn tính.

Sốt cao, khô môi, miệng, khát nước: giã quả trám lấy nước uống.

Ho khản tiếng: trám tươi 4 quả bỏ hột, giã nát với huyền sâm 10g thái lát. Cho vào nồi đất đổ ngập nước, nấu uống. Có tác dụng tư âm, giáng hỏa, lợi yết hầu, thanh nhiệt giải độc, tiêu thũng.

Nước uống sinh tân dịch, chữa ho, thanh nhiệt giải thử: trám tươi 5 quả bỏ hột, kim thạch hộc 5g, thái nhỏ, rễ lau 5g thái nhỏ, mã thầy 5g gọt vỏ, lê gọt vỏ 2 quả, mạch đông 10g, ngó sen 10 miếng. Tất cả nấu với 2 lít nước, đun lửa nhỏ 1 giờ. Để nguội lọc lấy nước uống hàng ngày. Thích hợp cho người luôn cảm thấy miệng khô, hay khạc nhổ nước miếng, ôn bệnh nhiệt thịnh, phổi ráo.

Nước thanh nhiệt: trám tươi 20g bỏ hạt, rễ lau tươi 4 chùm thái nhỏ. Tất cả nấu với 0,5 lít nước trong 30 phút, lọc nước uống nóng. Tác dụng thanh phế, lợi hầu, khử hoả, hoá đàm, thanh can nhiệt, vị nhiệt, sinh tân dịch, khỏi ho.

Canh thanh long bạch hổ thang: củ cải trắng 1kg, trám tươi 5-6 quả (liều lượng tùy số người dùng). Nấu nhừ (trong vài tiếng). Chữa sưng đau rát họng.

Ngộ độc cua cá: trám 30g sắc nước uống.

Say rượu nôn mửa loạn thần: trám trắng tươi giã nhuyễn thêm nước, vắt cốt cho uống ngay.

Trám đen: vị chát, ngọt hơi chua, không độc, tính mắt (lương) có tác dụng tiêu viêm, cầm máu, lợi tiểu, tiêu sưng. Để cầm máu, tiêu viêm lấy trám đen ngâm muối rồi nghiền nát sau đó đem chưng lấy nước để ngâm rửa, súc miệng.

Chữa ho khan: trám đen muối 20 quả, vỏ đậu phụ 50g, nước vừa đủ nấu sôi xong chắt lấy nước uống.

Miệng khô, họng rát, khản tiếng: nhai trám đen nuốt nước. Ngày 7 quả, liền 3-4 ngày.

Viêm họng mạn tính, ho rát họng: Nấu trám với chè xanh, mật ong uống.

Ho gà (bách nhật): nấu trám đen với đường phèn lấy nước uống.

Lưu ý: Khi ăn cùi trám nên tách bỏ hạt riêng (nhất là đối với trẻ em) khi ăn trám đen om để tránh hạt tuột vào họng.

BS. Phó Thuần Hương

Vị thuốc quý kim tiền thảo

Cây kim tiền thảo còn có tên gọi là mắt trâu, đồng tiền lông, vảy rồng, mắt rồng. Là cây cỏ, cao 30-50cm, mọc bò. Ngọn non dẹt và có phủ lông tơ, màu trắng. Lá mọc so le, gồm một hoặc 3 lá chét tròn dài 1,8 - 3,4cm, rộng 2 - 3,5cm, do đó có tên là đồng tiền, mặt dưới có lông trắng bạc, mặt trên có những đường gân rất rõ. Hoa màu tía, mọc thành chùm xim ở kẽ lá. Quả đậu nhỏ, giữa các hạt thắt lại.

Cây mọc hoang ở các vùng rừng núi và được trồng bằng hạt làm thuốc. Thu hái chủ yếu vào mùa hè - thu, dùng tươi, phơi hoặc sao khô.

Các nghiên cứu dược lý hiện đại cho thấy kim tiền thảo có tác dụng: lợi tiểu, lợi mật, kháng sinh, kháng viêm, giãn mạch, hạ huyết áp. Công dụng chủ yếu lợi mật, thông tiểu tiện, thường dùng chữa sỏi thận, sỏi mật, sỏi bàng quang, phù thũng, viêm đường tiết niệu, khó tiêu. Ngày dùng 10 - 30g dưới dạng thuốc sắc. Dùng riêng hoặc phối hợp với các vị thuốc khác.

Cơ chế trị sỏi của kim tiền thảo được giải thích như sau: Trước hết là lợi tiểu, pha loãng dòng nước tiểu, làm ngưng sự gia tăng kích thước của hòn sỏi. Sau đó nhờ tác dụng chống viêm, kháng khuẩn mà làm giảm sự phù nề của niệu quản, tạo điều kiện thuận lợi cho sỏi di chuyển xuống dưới và tiểu tiện ra ngoài. Thời gian điều trị phụ thuộc vào kích thước và vị trí của sỏi trong đường tiết niệu.

Đơn thuốc sử dụng kim tiền thảo:

Chữa viêm đường tiết niệu: Kim tiền thảo 60g, mã đề, bòng bong, kim ngân hoa, mỗi vị 15g, sắc uống 1 tháng.

Chữa sỏi thận (thể thấp nhiệt): với biểu hiện người trì trệ, nước tiểu vàng hoặc đỏ, đái đục có cặn, có sỏi, đau, nặng, tức vùng thắt lưng: Kim tiền thảo 30g, quả dành dành 20g, vỏ núc nác 16g, hoa, lá mã đề 20g, xương bồ 8g, mộc thông 12g, tỳ giải 30g, cam thảo đất 16g, ý dĩ nhân 20g, quế chi 4g. Cho các vị thuốc vào ấm đất với 4 bát nước, đun nhỏ lửa, còn 2 bát, chắt ra, cho nước sắc tiếp, mỗi lần lấy 1,5 bát, trộn chung cả 3 lần, chia uống nhiều lần trong ngày. Uống liên tục 2-3 tháng.

Chữa sỏi đường mật: Kim tiền thảo, nhân trần mỗi vị 40; sài hồ, mã đề mỗi vị 16; chi tử 12g chỉ xác, uất kim mỗi vị 8g; nha đạm tử 6g, đại hoàng 4g. Sắc uống ngày một thang. Uống trong 2 tháng.

Chữa sỏi đường tiết niệu: Kim tiền thảo 40g; mã đề, tỳ giải mỗi vị 20g; trạch tả, uất kim, ngưu tất mỗi vị 12g; kê nội kim 8g. Sắc uống ngày một thang. uống liên tục 1-2 tháng

Chú ý: Phụ nữ có thai không nên dùng. Người đau dạ dày nên uống thuốc vào lúc no.

Bác sĩ Thu Vân

Rau, hạt giúp mạnh tỳ vị, bổ dưỡng

Đông y có nhiều loại rau, hạt, củ quả vừa tốt cho sức khỏe lại có tác dụng chữa bệnh mà ít ai biết đến. Xin giới thiệu một số hạt để bạn đọc tham khảo và áp dụng khi cần thiết.

Đậu đen: Đông y gọi là hắc đậu. Có vị ngọt, tính hòa hoãn, dùng tốt cho thận, mùa hè thường nhiệt độ cao, đối với người tiểu đường nấu phui cho tí muối, ăn vừa bổ thận vừa mát phổi, điều hòa đường máu rất tốt. Người bình thường nấu chè đậu đen ăn vừa bổ tỳ, vừa mát phổi. Đông y dùng đậu đen sao có mùi thơm đun nước uống để thanh nhiệt giải độc về mùa hè, bổ thận trừ phong thấp, bổ huyết, trong Đông y vị thuốc có màu đen đi vào thận nên dùng đậu đen sao hơi cháy làm vị thuốc dẫn các vị thuốc khác vào thận, thay cho cam thảo vì cam thảo có vị ngọt có lợi cho tỳ vị nhưng làm tổn hại thận. Nếu để thanh nhiệt thì nấu đỗ đen với đường phèn ăn vào buổi trưa. Nếu trừ phong thấp nấu đỗ đen với lá lốt ăn ngày hai lần vào buổi sáng và tối trước khi ăn cơm 15 phút. Hiện nay, một số địa phương dùng đỗ đen thay thục địa trong bài lục vị và bát vị để bổ thận âm và thận dương.

Đậu đỏ: Đông y gọi xích tiểu đậu, hồng phạm đậu. Có vị ngọt, chua, tính bình vào tâm và tiểu tràng. Có tác dụng hành huyết lợi thủy, tiêu sưng liễm mủ, trị chứng nhiệt độc mùa hè sinh tả lỵ, mụn nhọt. Nếu đại tiện ra máu mủ, dùng xích tiểu đậu 30g, rau sam khô 20g đun nước uống; Nếu do nhiệt sinh mụn nhọt, rôm sảy: xích tiểu đậu 50g đun chín nhừ, lá non bồ công anh tươi thái nhỏ 10g (bỏ sau) cho chút muối, chia 2 lần ăn trong ngày, ăn liên tục 5-7 ngày.

Khoai từ: Đông y gọi là thổ noãn. Có vị ngọt hơi cay, tính hàn, có tác dụng thanh nhiệt giải độc tỳ vị, bồi bổ tân dịch, đối với người nằm ngủ hay khô miệng, khô họng dùng tốt, có tác dụng giải độc khi bị ngộ độc thức ăn bị tích trệ trong dạ dày. Nếu làm thuốc sau khi thu hoạch rửa sạch cạo bỏ vỏ phơi hoặc sấy khô sao vàng phối hợp với các vị thuốc khác trị chứng ho do phế (phổi) nhiệt ho không có đờm. Nếu làm thức ăn luộc chín, ăn có tác dụng bổ tỳ vị. Nếu giải độc thức ăn ứ đọng trong dạ dày luộc chín, chà nhuyễn, trộn với mật ong ăn ngày 2 lần mỗi lần ăn 100g sau khi ăn sáng và ăn tối, cũng là món tráng miệng vừa ngon vừa bổ. Trẻ em lười ăn, đại tiện phân sống, ngày ăn 2 lần mỗi lần 50g, ăn liên tục 10 ngày nghỉ 10 ngày ăn tiếp đợt hai, mỗi tháng ăn 1-2 lần.

Cây rau bợ: Đông y gọi là thủy tần. Thường mọc hoang vào mùa xuân hạ ở ven đường, bờ ao, bờ ruộng, có vị ngọt, tính hàn không độc, có tác dụng thanh nhiệt, giáng hỏa, trục thủy. Điều trị các chứng nóng ở ngoài da, cơ bắp, lợi tiểu là một vị thuốc điều trị chứng tiểu đường. Hái về bỏ rễ, rửa sạch, phơi khô dùng làm thuốc. Nếu dùng tươi giã nhuyễn đắp ngoài các vết bỏng nhẹ làm hút khô nước của vết bỏng, làm rau ghém ăn với thịt vịt, ngan vào mùa hè, giúp giải nhiệt, tiêu thực.

Chua me (chua me đất): Đông y gọi toan tương thảo. Mọc hoang ở khắp nơi có vị chua, tính mát không độc, có tác dụng thanh nhiệt, thông lâm, lợi tiểu, hành huyết, có tác dụng trị chứng đái buốt, đái dắt vào mùa hè, do nhiệt độ cao nước tiểu đỏ, trị chứng huyết uất nổi mẩn ngứa, làm nước giải khát. Thu hái về rửa sạch, phơi khô dùng làm thuốc. Bài thuốc điều trị đái buốt, đái dắt: Toan tương thảo khô 20g, lá và hạt mã đề mỗi thứ 16g, rau sam khô 10g, nếu tiểu tiện ra máu gia thêm lá huyết dụ khô 16g, ngày một thang sắc uống, uống liên tục 5-7 ngày. Để giải nhiệt dùng tươi 50g đun với 2 lít nước, sau 30 phút bỏ bã cho một chút muối uống giải nhiệt sau khi đi nắng về ra nhiều mồ hôi mệt mỏi rất tốt. Hoặc dùng tươi xay sinh tố pha với đường uống trị rôm sảy.

TTND.BS. Nguyễn Xuân Hướng

Hoàng liên

Hoàng liên gai.

Hoàng liên còn gọi xuyên liên, hồ hoàng liên, hoàng liên gai, hoàng liên ô rô. Tên khoa học là Coptis chinensis Franch. Thuộc họ Mao lương. Hoàng liên mọc hoang và trồng ở các tỉnh Lào Cai, Lai Châu...

Thành phần hoá học: trong hoàng liên có chừng 7 ancaloid toàn phần trong đó chủ yếu là chất becberin, ngoài ra còn có chất panmatin, coptisin, worenin, columbamin.

Theo Đông y, hoàng liên vị đắng, lạnh, có tác dụng tả hoả giải độc, thanh tâm nhiệt, táo tỳ thấp, trị tiêu hoá không tốt, viêm ruột, hạ lỵ, đau bụng nôn mửa, trị đau mắt đỏ, tổn thương mí mắt. Lại chủ trị 5 tạng lạnh nóng, tiết tả ra máu mủ lâu ngày, trừ thuỷ, lợi xương ích mật, mồm miệng bị nhiệt lở loét...

Các bài thuốc có hoàng liên

Trị mắt đau đỏ, do phong nhiệt công lên: Hoàng liên 10g, địa hoàng 12g, cam cúc 10g, hoa kinh giới 8g, ngọn cam thảo 6g, xuyên khung 8g, sài hồ 8g, thuyền thoái 4g, mộc thông 8g. Sắc uống sáng và tối, ngày 1 thang.

Trị bệnh mắt, mắt có màng, thong manh: Bột hoàng liên 40g giã cùng 1 bộ gan dê đực, giã nhuyễn làm viên bằng hạt ngô đồng 0,3g. Mỗi lần uống 21 viên với nước ấm.

Nước rửa mắt đau (rất công hiệu): Hoàng liên 10g, đương quy 10g, cam cúc hoa 8g. Sắc lấy nước, cho 1 ít phèn chua để dùng hàng ngày. Đun nóng ấm rửa mắt.

Trị các loại trệ đọng, đi ngoài ra máu: Hoàng liên 12g, thược dược 10g, hạt sen 8g, biển đậu 10g, thăng ma 8g, cam thảo 4g, hoạt thạch 8g. Sắc uống trong ngày.

Trị lỵ toàn máu, bụng đau: Hoàng liên 12g, hoa hoè 10g, chỉ xác 10g, nhũ hương 6g, một dược 8g. Sắc uống trong ngày.

Trị các loại cam nhiệt của trẻ con: Hoàng liên 12g, ngũ cốc trùng 8g, lô hội 8g, bạch vu di 8g, thanh đại 10g, hoa bạch cẩn 8g, hoa phù dung trắng 8g. Sắc uống.

Trị các loại trĩ rò: Hoàng liên và xích tiểu đậu lượng bằng nhau, giã nhuyễn thấm nước đắp lên chỗ trĩ.

Trị tiết tả sau khi bị sởi nặng: Hoàng liên 12g, càn cát 10g, cam thảo 4g, thăng ma 10g, thược dược 10g. Sắc uống trong ngày.

Trị miệng cam bị lở loét: Hoàng liên 12g, ngũ vị tử 6g, cam thảo 4g. Sắc uống.

Trị đái đường, đi tiểu nhiều: Hoàng liên 12g, mạch môn 8g, ngũ vị tử 6g. Sắc uống.

Người già, phụ nữ mắc bệnh lỵ lâu khỏi: Hoàng liên 12g, nhân sâm 10g, hạt sen 10g. Sắc uống.

Trị nhiệt lỵ, thanh nhiệt, bình can: Hoàng liên 30g, hoàng bá 30g, trần bì 20g, bạch đầu ông 30g. Sắc uống.

Thuốc kích thích tiêu hoá ăn uống tốt: Bột hoàng liên 10g, bột đại hoàng 20g, bột quế chi 15g. Các vị trộn đều để dùng. Mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 1g với nước ấm.

Trị tổn thương do rượu: Hoàng liên 12g, ngũ vị tử 6g, mạch môn 8g, càn cát 8g. Sắc uống.

Lương y Minh Chánh

Cây sen cạn lợi tiểu

Theo y học cổ truyền, sen cạn còn có tên là hạn hà thảo, hà diệp liên. Đây là loại cây thảo có vị cay, chua, tính mát, tác dụng thanh nhiệt, giải độc, lương huyết (làm mát máu) cầm máu, điều kinh, lợi tiểu, nhuận trường, trị ho... Sen cạn còn được sử dụng cho người cao tuổi và cho những người dưỡng bệnh vì có tác dụng tái tạo lại sức khoẻ, nhuận tràng.

Các bộ phận làm thuốc là toàn cây, có thể thu hái quanh năm.Theo nghiên cứu trong 100g lá sen cạn tươi thu được 265mg vitamin C. Ngoài ra, trong toàn cây còn chiết được nhiều khoáng vô cơ như: sulfua, sắt, magiê, phôtpho và chất tromalit có tác dụng kháng khuẩn nhưng lại không ảnh hưởng đến hệ vi khuẩn đường ruột. Bà con một số vùng thường lấy lá non dùng ăn sống hoặc nấu súp với khoai tây. Nụ hoa và quả xanh dùng ngâm giấm làm gia vị, có mùi vị như rau cải xoong, ăn rất ngon miệng.

Sen cạn có tác dụng thanh nhiệt, giải độc.

Sau đây là một số cách dùng sen cạn để chữa bệnh:

Bài 1: Chữa ho do lạnh: Lá sen cạn tươi 30g hoặc hạt sen cạn khô 3g, giã nhỏ, hãm với 100ml nước sôi trong 5 - 10 phút. Chia 2 - 3 lần uống sau bữa ăn. Có thể thêm ít đường hoặc chất thơm cho dễ uống.

Bài 2: Giúp răng chắc khỏe, giảm viêm lợi: Lấy một nắm nụ hoa hoặc hạt cho vào 1 lít nước sắc còn 300ml, uống liền sau bữa ăn, ngày 2 - 3 lần. Hoặc 15-30 lá cũng sắc trong 1 lít nước đun cạn còn 300ml, chia ba lần uống trong ngày. 10 ngày một liệu trình.

Bài 3: Trị tiểu tiện sẻn đỏ, bí tiểu do nhiệt: Lá sen cạn 20 - 30g, sắc với 500ml nước, còn lại 200ml, chia 2 lần uống trong ngày, sau khi ăn từ 2 giờ.

Bài 4: Giúp nhuận tràng, khắc phục táo bón: Quả sen cạn đã chín, phơi khô 0,6 - 1g nghiền thành bột, trộn với đường hoặc mật ong, uống trước khi đi ngủ. Có thể dùng quả tươi nghiền nát, lấy 1 - 3 thìa cà phê nước quả, thêm để uống trước khi đi ngủ, 10 ngày một liệu trình.

Bài 5: Chữa chứng rụng tóc: Hoa sen cạn 100g, hạt tươi 100g, rửa sạch cho vào ấm đổ 1 lít nước, sắc còn 300ml. Lấy nước thuốc đã sắc xoa vào tóc ngày 1 lần giúp cho tóc mọc nhanh hơn.

Ngoài ra, một số bà con thường dùng 100g lá tươi ngâm trong 1 lít rượu trắng cao độ khoảng 15 ngày, lọc, đóng chai kín. Ngày uống ba lần, mỗi lần một thìa cà phê, có thể dùng trong nhiều ngày có tác dụng hoạt huyết, thông kinh chống táo bón. Tuy nhiên, sen cạn có thể gây kích ứng trên niêm mạc dạ dày, người viêm loét dạ dày cần thận trọng khi dùng. Để bài thuốc đem lại hiệu quả cần cần được bắt mạch kê đơn.

Bác sĩ Nguyễn Kim

Đỗ trọng

Đỗ trọng (Eucomia ulmoides Oliv. thuộc họ Đỗ trọng (Eucommiaceae) vị thuốc này được ghi đầu tiên ở sách Bản kinh. Còn có tên là Mộc miên vì trong vỏ có chất sợi tơ bạc.

Đỗ trọng là thân cây gỗ, cao từ 15 - 20m, đường kính độ 33 - 50cm. Vỏ cây màu xám. Lá mọc cách, hình tròn trứng, phía cuống hình bầu dục hay hình thùy, đuôi lá nhọn, lá xanh có răng cưa; mặt lá nhẵn bóng, màu xanh đậm, bóng láng, mặt trái lá non có lông tơ, lúc già thì nhẵn bóng không còn lông, có vân vằn, cuống lá có rãnh, không có lá bắc.

Hoa đơn tính khác gốc; hoa đực và hoa cái không có bao hoa; hoa đực mọc thành chùm; hoa cái tụ tập 5 - 10 cái ở nách lá. Quả có cánh mỏng dẹt, ở giữa hơi lồi, trong có một hạt. Hạt dẹt, hai đầu tròn, có thể dùng làm giống. Bộ phận được dùng là thuốc là vỏ cây đỗ trọng, dùng tùy theo chủ đích mà có cách chế biến khác nhau. Liều dùng 5 - 12g dưới dạng thuốc sắc hay ngâm rượu.

do trong

Những công dụng tuyệt vời

Đỗ trọng là vị thuốc được dùng từ lâu đời. Đây cũng là vị thuốc mang đầy tính huyền thoại với công năng kỳ diệu của nó. Bản thảo cương mục của Danh y Lý Thời Trân (thời nhà Minh, Trung Quốc) có chép: “Bàng Nguyên Anh kể lại: xưa có người thiếu niên mới lấy vợ bị bệnh yếu chân không đi được, uống các thuốc không khỏi, sau đó lương y Tô Lãm bắt mạch đoán rằng bệnh đó do thận hư, cho uống đỗ trọng 10 ngày là khỏi”.

Sách Bản kinh nói về công dụng của đỗ trọng: “Chủ yếu tích thống, bổ trung, ích tinh khí, kiện gân cốt, cường chí, trị âm nang ngứa chảy nước, tiểu gắt”. Sách thuốc cổ viết: “Phàm hạ tiêu chi hư, phi đỗ trọng bất bổ; hạ tiêu chi thấp, phi đỗ trọng bất lợi; túc kính chi toan, phi đỗ trọng bất khứ; yêu tất chi thống, phi đỗ trọng bất trừ” (phần dưới cơ thể suy yếu không có đỗ trọng thì không bồi bổ được; phần dưới có thấp không có đỗ trọng thì không phải làm thải ra được; chi dưới nhức mỏi không có đỗ trọng thì không làm hết được; lưng gối đau đớn không có đỗ trọng thì không trừ bỏ được).

Kết quả nghiên cứu dược lý học hiện đại cho thấy, đỗ trọng có tác dụng hạ huyết áp, giảm cholesterol trong huyết thanh, làm giãn mạch, tăng lưu lượng máu trong động mạch vành tim; làm hưng phấn hệ thống tuyến vỏ thượng thận - tuyến yên, ức chế cơn co tử cung, lợi niệu, trấn tĩnh, cải thiện khả năng sinh hoạt tình dục.

Bài thuốc dùng đỗ trọng

Những bài thuốc bổ thận, cường dương tư âm, bổ dương, tăng cường tinh khí, nâng đỡ thể trạng chứ không chỉ có tác dụng kích hứng nhất thời làm cương cử dương vật. Các vị thuốc này phối hợp với nhau để quân bình âm - dương cho cơ thể. Bài thuốc phải đạt mục đích chủ bổ các tạng: Thận, Tâm, Can.

Thận chủ về thủy, tức là tinh khí. Thận khỏe thì tinh khí đặc, chứa nhiều tinh trùng nên dễ thụ thai.Tâm chủ về huyết hỏa hay năng lượng. Tâm tốt thì trí não quân bình, năng lực phương cương, sức lực bền dai, tinh trùng mới đủ sức bơi ngược dòng tử cung để thụ thai. Can thuộc hành mộc chủ về cân tức là gân. Cân khỏe thì gân mới đủ sức cương cử mà hành sự. Dương vật là một loại gân chủ yếu của cơ thể, gọi là “tông cân chi hội”, nên khi can khí không đến thì dương vật không cương được.

Như trên đã nói, đỗ trọng bổ Can, Thận, đồng thời có ích cho Tâm, tức một vị thuốc hội đủ ba yếu tố (tam bổ) cho người vô sinh - hiếm muộn. Tuy nhiên, để đỗ trọng làm nhiệm vụ chủ yếu bổ Thận, bên cạnh bổ Can và ích Tâm, người ta sao chế vị thuốc này với muối (muối và đỗ trọng lượng thích hợp, thường 50g muối hòa với nước cho 1kg đỗ trọng, sao cho đến khi đỗ trọng đứt tơ). Qua kinh nhiệm chữa bệnh lâu năm, chúng tôi dùng đỗ trọng trong một số bài thuốc chữa vô sinh-hiếm muộn.

do trongBộ phận được dùng làm thuốc là vỏ cây đỗ trọng

Trong bài viết này, chúng tôi giới thiệu bài thuốc cổ phương Bát vị hoàn, gia đỗ trọng và nhục thung dung. Trong đó, nhục thục dung là vị thuốc có vị ngọt, mặn, tính ấm; vào 2 kinh thận, đại tràng; có tác dụng bổ thận, ích tinh, nhuận táo, hoạt tràng. Chủ trị nam giới liệt dương (dương nuy), nữ giới không có thai, đới hạ (nhiều khí hư), băng lậu... Các kết quả nghiên cứu hiện đại cho thấy, hàm lượng hoạt chất sinh học trong nhục thung dung rất phong phú, có tác dụng như một loại hoóc-môn sinh dục, có khả năng kích thích và điều tiết hoạt động của tuyến thượng thận.

Còn đỗ trọng thì tác dụng của nó đã nói ở trên. Hai vị thuốc được thêm vào sẽ làm tăng tác dụng bổ thận, sinh tinh, cường dương…

Cụ thể bài Bát vị hoàn gia giảm: thục địa 320g, hoài sơn 240g, sơn thù 200g, đơn bì 120g, trạch tả 120g, bạch linh 160g, nhục quế 40g, phụ tử 40g, đỗ trọng 120g, nhục thung dung 50g. Thục địa nấu cao pha mật ong; các vị còn lại sấy khô tán mịn, hoàn với mật ong mỗi viên 10g. Ngày uống 4 viên chia sáng chiều.

Chúng tôi còn dùng bài Cố bản thập bổ hoàn (của Hải Thượng Lãn Ông): thục địa 320g, hoài sơn 240g, sơn thù 200g, bạch linh 160g, ngưu tất 160g; đỗ trọng 120g (tẩm rượu muối sao), ngũ vị tử 48g, phụ tử 60g, lộc nhung 300g. Bài này cũng làm hoàn mềm.

BS. NGUYỄN PHÚ L M

(Chủ tịch Hội Đông y Mang Thít, Vĩnh Long)